Archive | January 2018

31-01 – Thánh Gioan Don Bosco (Ý, 1815-1888)

Là cha, thầy và bạn của

Thanh Thiếu Niên

Phạm Bá Nha 

 
Thánh Gioan Don Bosco (Ý, 1815-1888)
Cuộc đời thánh Gioan Don Bosco, như chính ngài viết trong nhật ký theo lệnh ÐGH Piô IX, ghi lại dòng Salésiens, gồm 3 phần : sống nghèo với cảnh mẹ góa con côi. Ơn gọi làm linh mục mở trường giáo dục con em và lập Dòng Salésiens. Cha Thánh suốt đời sống và phục vụ người trẻ. Trước khi qua đời, (31.01.1888), cha nói : Hãy nói với các bạn trẻ, ta chờ chúng ở trên Thiên Ðàng. Thánh nhân được phong Chân Phước 02.06.1926, và Hiển Thánh 1.4.1934, do ÐGH Piô XI. Lễ kính 31.1. hàng năm. Khi phong thánh, ÐHG tôn vinh Don Bosco là cha và thầy của thanh thiếu niên.
Năm nay 2015, kỷ niệm 200 sinh nhật Thánh Don Bosco, ÐGH Phanxicô nói : Nhân dịp kỷ niệm sinh nhật thánh nhân, xin hoán cải giới trẻ trong tinh thần tươi trẻ huynh đệ như xưa, ngài đã đào luyện.
 
 I. Nghèo cảnh Mẹ Góa con côi
Thánh Gioan Don Bosco sinh 15.08.1815, lễ Ðức Mẹ Lên Trời, tại làng Becchi, Marialdo, thị trấn Castelnuovo d’Asti, bắc Ý, xa Torino 17 cây số. Ngày 17, Gioan được rửa tội do cha Giuse Festa. Trong sổ rửa tội ghi tên em nhỏ : Bosco Joannes Melchior. Melchior là tên ông nội. Chữ Don thêm vào để ‘‘tôn kính’’ hay ‘‘cha’’.
Mẹ Gioan là Magarita Occhiena di Capriglio (+1865). Ông bà thành hôn năm ông 28 tuổi, bà 24 tuổi. Cha của Gioan là Phanxicô Aloysii, dân quê. Ông qua đời 12.5.1817, 34 tuổi. Năm đó, Bosco mới 22 tháng, mẹ kéo Gioan vào buồng khóc, nói : Bố không còn nữa. Trên mộ ông,  ghi : Orphanorum patercha trẻ mồ côi. Gia đình có ba anh em : Antôn con mẹ trước, Têrêxa mất khi mới hai ngày. Giuse và Gioan. Trong nhà còn bà nội, 70  tuổi.
Gia đình sống trong thời đói kém. Dân làng ăn cháo bột bắp hay mì. Người chết đói la liệt ngoài đường, miệng còn ngậm cỏ. Có tiền cũng không mua được thức ăn. Có lần bà mẹ nhờ người hàng xóm đi mua thức ăn. Họ mang tiền về. Cả nhà bàng hoàng lo sợ. Giữa lúc túng bấn ngặt nghèo, bà qua nhà bên cạnh vay mượn chút ít. Nhưng không ai có. Bà nói với các con : Khi bố chết, có dặn : phải có lòng tin. Nghe lời bố cả nhà quì xuống cầu kinh. Rồi bà xuống bắt con bê, nấu một phần cho con ăn, qua cơn đói.
Ngay trong những ngày đói kém, có người ngỏ ý muốn kết hôn. Bà từ chối : Thiên Chúa cho tôi một người chồng. Nay Chúa cất đi. Anh trao lại cho tôi ba đứa con. Tôi sẽ là người mẹ độc ác, nếu bỏ rơi chúng. Ðang khi chúng cần tôi. Người ta nói với bà tìm cho mỗi đứa một người giám hộ tốt. Bà trả lời : giám hộ chỉ là bạn. Tôi là mẹ, không bao giờ bỏ con. Dù cho tôi vàng bạc.  
Chính bà để tâm dạy các con đọc kinh chung, lần chuỗi và cầu nguyện. Năm con Bosco lên sáu, xưng tội lần đầu, mẹ dẫn con đến nhà thờ, tham dự Lễ, bà xưng tội trước, sau đến con. Ðức Piô XII nói về gia đình bà : hãy xem người phụ nữ góa, cùng ba đứa con cầu nguyện. Chúng như thiên thần nhỏ. Người mẹ mở tủ, lấy quần áo cho con mặc. Ðem con đi nhà thờ làng bên cạnh. Sau cơm tối, con cái vây quanh, bà nhắc các con 10 giới răn. Kể cho con cuộc tử nạn Chúa Giêsu.  Sau này, Bosco kể lại, nhờ mẹ, mà mình có lòng tôn kính Phép Thánh Thể.
Mẹ con không có nghề trong tay, nên Bosco làm nhiều việc, phụ giúp nuôi gia đình, như : chăn bò, bửa củi, bồi bàn càfê, may quần áo… Năm 11 tuổi, Gioan mới cắp sách, đi bộ 4 cây số, mới đến trường. Do các linh mục điểu hành, kỷ luật.
Nghèo, lại lận đận học hành, Bosco mất học nhiều năm. Từ nhỏ nuôi mộng thành linh mục. Nhưng sợ mẹ vất vả tốn kém. Bà đã nói với con: đừng băn khoăn. Mẹ nghèo, sống và chết nghèo. Năm 16 tuổi, Bosco nhập tu. Giờ rảnh, Bosco xin tập họp trẻ mồ côi, vui chơi và dạy giáo lý. Sau khi làm linh mục, cha bắt tay gầy dựng theo ước mơ. Lần đầu 1 trẻ đến. Ba hôm sau có 9 em. 3 tháng có 25 em. Chẳng bao lâu, toàn trẻ mồ côi đến. Sáng lễ, xưng tội. Chiều giáo lý, hát vui chơi. Cha lập các ‘‘nguyện xá’’ qui tụ thanh thiếu niên, vui chơi. Cha có thiên tài viết nhạc thuyết phục trẻ và chủ trương : Nhà Salésiens thiếu âm nhạc, chỉ là xác không hồn. Bosco yêu giới trẻ.
Có mẹ Margarita, Thánh Gioan Don Bosco trở thành nhà giáo dục thanh thiếu niên tài giỏi. Anh của Bosco nóng tính hay hành hạ em. Bà buồn. Cha sở thấy Gioan thông minh chọn vào nhà xứ học latinh, chuẩn bị đi tu. Anh ghét, bắt Gioan làm việc tối ngày lại đánh đập, có khi Gioan ngất xỉu. Nhìn xa, biết con sẽ đau khổ, bà gửi con tới nhà cậu em, xa 20 cây số. ở nhà cậu, em làm bánh mì, nặng nhọc thức khuya dậy sớm. Dưới ánh lửa tối, Gioan lấy sách ra học. Ðôi khi bà gửi con đến nhà những người quen.    
Ðến hôm người anh lập gia đình, ở riêng.  Bà mẹ đem con về nhà và gửi vào cha xứ tiếp tục tu luyện. Ngày con nhập tu viện Torino, nghèo bà phải bán áo cưới may cho con áo chùng thâm. Ngày con thụ phong linh mục, bà qùi nhận phép lành, bà nói : mẹ sung sướng thấy con thành linh mục. Con thành tâm phụng sự Chúa và các linh hồn.

Có lần thấy mẹ lạnh, ăn mặc lôi thôi, cha mua cho mẹ áo mới. Lâu không thấy mẹ mặc, cha hỏi. Mẹ trả lời đã bán phụ tiền nuôi trẻ. Sau nhiều năm phụ con, cạn tiền, lại già, kiệt sức, vì lũ trẻ tinh nghịch, phá phách bà xin nghỉ. Cha nói với mẹ: vắng mẹ, còn ai giúp con. Bà mẹ mắt mờ, lưng còng, hai mẹ con nhìn nhau, nước mắt lưng tròng, nói : Gioan con, mẹ hiểu và ở lại với con….cho đến chếtTụi nó là con mẹ. Sau 20 năm phụ con, bà qua đời ai cũng mộ mến và gọi là má Magarita. Hiện có tượng má lớn ngay cổng vào làng cũ xưa. Tay mang giỏ hoa. Bà qua đời năm 1865, sau 20 năm phụ con giáo dục, giúp trẻ em. Ai cũng mộ mến gọi bà : Má Margarita.(Những Người Lữ Hành Trên Ðường Hy Vọng. ttr.193-197).

Thanh Gioan Bosco 31-01

II. Linh Mục trẻ ở Torino
Mẹ thánh nhân nói với con lúc 14 tuổi khi vào chủng viện Chierin ở Turino : Mẹ tràn đầy niềm vui, khi thấy con mặc áo chùng thâm, nhưng con nên nhớ ‘‘chiếc áo không làm nên thầy tu’’. Nếu ngày nào con nghi ngờ ơn gọi, thì mẹ van xin con, hãy chọn con đường khác. Mẹ thích đứa con nông dân nghèo hơn linh mục sao lãng bổn phận. Lúc con chào đời, mẹ đã dâng con cho Đức Mẹ. khi con đi học, mẹ đã dặn con tôn kính Người trong khó khăn. Giờ đây con hãy chọn Đức Mẹ là nữ vương của con.
Năm 1848, Don Bosco thụ phong linh mục, lúc đầu làm tuyên úy nhà tù, sau có mẹ phụ giúp, phục vụ giới trẻ trong xóm lao động. Và 1844, làm tuyên úy lưu xá sinh viên. Từ 1856, hai mẹ con trực tiếp nuôi khoảng 150 đến 200 trẻ em.

Từ nhỏ Gioan cảm thấy ao ước làm linh mục. Cậu kể lại giấc mơ, năm lên 10. Một đêm trong giấc mơ, Gioan Don Bosco thấy mình đứng giữa bọn trẻ đang đánh nhau và chửi tục. Cậu khuyên can, chúng không nghe. Bỗng, người áo trắng đến mỉm cười, nói :

– Bằng tình yêu, em sẽ biến chúng thành ngoan ngoãn đạo hạnh.
– Nhưng thưa ông, cháu nghèo và dốt.
– Vâng lời, chịu khó học, em sẽ làm được.
– Thưa, ông là ai ? 
– Ta là con Trinh Nữ mà mẹ em đã dạy phải cầu nguyện, em hãy xin Mẹ Ta giúp.
Rồi kìa, Ðức Mẹ xuất hiện, mặt dịu hiền, nói với Don Bosco :
– Con nhìn xem…
Theo tay Mẹ chỉ, Bosco nhìn thấy đoàn chó dữ. Ðức Mẹ tiếp :
– Như Mẹ xử với đoàn chó dữ thế nào, con hãy xử với các trẻ như vậy.
Từ giấc chiêm bao đó, Don Bosco hiểu được sứ vụ giáo dục phục vụ thanh thiếu niên.   
Ngày kia, mẹ dẫn Bosco đi coi xiệc. Về nhà, Bosco nảy ra, bắt chước trong xiệc ‘’tự tập leo giây’’. Mỗi lần té, Bosco lại đọc Kinh Kính Mừng. Sau nhiều lần. Bosco thành công. Tập hết màn này, sang màn khác. Cuối cùng, Don Bosco trình diễn một buổi xiệc. Thành công.
 
 Nguyện xá ở Valdosco
 
 Năm 1848, chuyện xảy ra khiến cha nghĩ phải lập nhà riêng cho giới trẻ nghèo. Là hôm  đó, cha vào phòng áo chuẩn bị lễ, thì nhìn thấy người coi phòng áo đánh đập cậu bé. Cha đuổi ông. Tên cậu Garetti Bartholomew, 16 tuổi, làm gạch. Ba hôm sau cậu rủ thêm 8 người khác, đến gặp cha. Rồi được Thiên Chúa và Ðức Mẹ thúc đẩy, Cha nghĩ ra nơi tập trung cho thanh thiếu niên đến ngày một đông. Cha đặt tên cho trung tâm này Nguyện xá. Các linh mục, dân chúng trong vùng không tán thành vì cho rằng cha đã lôi kéo bọn trẻ, chúng không đến nhà thờ được. Trong khi đó, chính quyền làm khó dễ, cho là ồn ào, mất an ninh. Nên bước đầu cha tập trung thanh thiếu niên ngoài cánh đồng. Ngủ lều, lưu động, mưa gió, nhất là thực phẩm vô cùng khó khăn. Có những ngày, cha dẫn đám trẻ em xin ăn. Bên ngoài nhìn vào, người ta cho cha điên. Nhưng kiên tâm, kết quả tốt, nhờ giúp đỡ người thiện nguyện. Chính trong các Nguyện Xá có thánh lễ, ca hát, lớp học chữ và nghề.
Ngày nay, trung tâm Valdocco còn lại : lớp học, phòng ăn, phòng ngủ, sân chơi, vòi nước… xưa, rộng rãi, một lúc cho cả mấy ngàn em… Nguyện xá lần lượt xây cất, dựng lên, với bao tiếng hoan hô và khâm mộ. Các em đến ngày một đông. Nổi tiếng. 
 
II. Lập Dòng Phanxicô Salésiens.
Một mình không thể làm xuể. Có lần Cha mệt, té, tưởng chết. Từ đó, năm 1859, cha và các cộng sự viên có ý tưởng lập Dòng Don Bosco, chuyên giáo dục thanh niên. Có dòng nam và nữ Salésiens. Người ta thường gọi Don Bosco là Vincent de Paul mới. Theo tinh thần của Thánh Phanxicô. Ðược Tòa Thánh công bố, 22.07.1864, mang tên Hội Ðạo Ðức thánh Phanxicô đệ Salê, với sắc lệnh Decretum Laudis. Ðức Pio IX, phê chuẩn hiến luật, 1873.
– 1859, đầu tiên có dòng Nam, tên là ‘‘Phanxicô Salésiens’’ (SDB). Dòng lo giáo dục, dạy nghề cho thanh thiếu niên. Dòng còn lo truyền giáo. Triết lý giáo dục là hiểu biết và yêu thương giới trẻ. Chân phước linh mục Michel Rua là 1 trong 8 tu sỹ khấn dòng đầu tiên. Sau làm Bề trên kế nghiệp Cha Bosco. Họ được chọn trong những em được cha Bosco nuôi.

Khẩu hiệu Dòng : Da mihi animas, coetera tolle, Xin cho tôi các linh hồn. Các sự khác cứ lấy đi (x.St. 24, 21-23)                         Logo Dòng cũ do Giáo sư Boas thiết kế (1885) : Ngôi sao rạng rỡ (niềm tin), mỏ neo (hy vọng), và một trái tim (tổ chức). Ðặt trên nền khu rừng nhỏ (hình đấng sáng lập) với ngọn núi cao (thành viên Salésiens vươn cao). Vòng quanh, là cành nguyệt tuế đan quanh xen nhau. Phía dưới câu khẩu hiệu Dòng.

Huy hiệu mới : Thánh Bosco với vòng tay mở rộng, cô đọng trong ba từ : Lý trí, tôn giáo và lòng thương yêu. Các trung tâm (nhà dòng trên thế giới được che dưới đường chữ ‘‘S’’ (Salésiens)  Ba mũi có vòng đỏ trên đầu, chỉ ba người, người giữa cao hơn. Che bởi mái nhà.

– 1872, Cha cùng thánh Marie Mazzarello lập Dòng Nữ mang tên ‘‘Dòng con Ðức Mẹ Phù Hộ Giáo Hữu’’ (FMA)

 – 1876, Cha bề trên cả Phillip Rinaldi (sau là chân phước) thành lập ‘‘Chí nguyện Don Bosco (VDB) nhiệt tâm với giới trẻ. Họ là những người độc thân, có nam, có nữ được thánh hiến. Dưới sự hướng dẫn của linh mục Salésiens.
Sau khi Thánh Don Bosco qua đời, những người tình nguyện và cựu học sinh mộ mến Dòng, lập ra ba tổ chức sau, yểm trợ cho Dòng tiếp tục đào tạo thế hệ trẻ.
 – ‘‘Hội Cựu học viên Don Bosco’’ (FMA) gồm những học sinh đã chịu ơn Salésiens, rải  rác khắp nơi, đóng góp tài sức cho dòng Salésiens. 
 – ‘‘Hội Cộng tác viên Salésiens’’ gồm giáo dân sống trong gia đình và cả linh mục trong xứ đạo, sống Tin Mừng theo tinh thần Don Bosco, trên thế giới, phục vụ giới trẻ địa phương.
 – ”Hội Truyền giáo giáo dân Salésiens’’ gồm nam nữ độc thân hay có gia đình, làm việc tự nguyện, ít ngày, bên cạnh SDB, FMA, tại các nước truyền giáo, có người Salésiens.  
Nay Salésiens có mặt tại 130 nước, gần 20.000 tu sỹ. VN có 11 cộng đoàn. Sau Ý, Salésiens mở  sang Nice, 1875 (Pháp) rồi Argentina… từ 1911, phát triển qua Colombia, Trung Quốc, Ấn  Ðộ, Nam Phi.. Năm 1877, ‘‘Tập san Salésiens’’ đầu tiên phát hành.
 
III. Trung tâm Valdosco Torino

Trung tâm phát sinh Salésiens, nay còn ba nơi hành hương kính viếng, vết tích công trình thời thánh Don Bosco để lại.         1. Vương cung thánh đường Ðức Mẹ Phù Hộ các Giáo Hữu, ở trên, có hầm. Dưới hầm đặt hơn 3.000 xương các Tử  Ðạo. Bên phải có xác Thánh Don Bosco. Vương Cung Thánh Ðường chứa khoảng 5.000… Ngày 09.06.1868, thánh lễ thánh hiến đầu tiên, có tới 1.200 em trường Don Bosco tham dự. Vòm nhà thờ có hàng chữ : Hic Domus Mea, inde Gloria mea (Ðây là nhà của Mẹ. Từ đây giải tỏa vinh quang của Mẹ). Báo Unita Catonca viết : Ngôi thánh đường do người nghèo xây cất, để phục vụ người nghèo. Sau đó trong vùng ngôi trường thứ ba xây cất.  

Gioan Don Bosco qua đời ngày 31.01. 1888. 72 tuổi. Don Bosco muốn ở với đàn con, trong khu trường, thành phố Torino. Nhưng vì vệ sinh, thi thể ngài an táng bên cạnh, ở Valsalice, chiều 06.02.1888, xa Torino 400 mét.
Ngày 16.05.1929, dịp phong chân phước cho cha Don Bosco, Thi thể Thánh nhân được bốc lên. Xác còn nguyên vẹn, đầy đủ. ÐGH Pio XI phong chân phước cho ngài, ngày 02.06.1929 và hiển Thánh 01.04.1934.
Hòm kiếng đựng Thánh Quan, bàn tay phải, ban phép lành, được đặt trên ngực, Hai bên hông có hàng chữ khẩu hiệu Dòng Da Mihi Animas. Cetera Tolle. Ðầu và cuối Thánh Quan có hình đông trẻ em và bản đồ thế giới Salésiens. Thánh quan nặng 820 kg, dài 2m53, rộng 1m08, cao 1m32.
Ngày 09.06.1929, Thánh Quan Don Bosco long trọng đặt  trong hòm kiếng nghinh về đặt bên phải Ðền Thánh Ðức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu.
Ðể đón chào kỷ niệm 150 năm thành lập Dòng, hòm kiếng thánh quan Don Bosco di chuyển đi 130 nước, có Salésiens. VN đón mừng từ 21.01.2011 đến 01.02.2011. Thánh quan trở về kịp năm 2015, 200 năm sinh nhật của thánh sáng lập Salésiens.
—————————-
Nguồn: http://giaoxuvnparis.org/bai-viet/475-thanh-gioan-don-bosco-y-1815-1888-.html
Sưu tầm: P. Mai Tự Cường

30-01 – Thánh Tôma KHUÔNG, LM. Tử đạo, 1780-1860

Tôma Khuông, Sinh năm 1780 tại Nam Hào, Hưng Yên, Linh mục dòng Ða Minh, bị xử trảm ngày 30/01/1860 tại Hưng Yên dưới đời vua Tự Ðức. Ngày 29.4.1951 cùng với 24 vị tử đạo khác tại Việt Nam, cha Tôma Khuông được Đức Piô XII suy tôn lên hàng Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 30/01.

Vì Chúa bỏ vinh sang

Đọc lịch sử Giáo Hội, chúng ta thấy không lạ gì mẫu gương của thánh Phanxicô thành Assisi hay thánh Tôma thành Aquinô đã từ bỏ dòng dõi quí tộc giàu sang để vâng nghe tiếng gọi của Thiên Chúa, đã theo gương đức Kitô, Thầy Chí Thánh, Đấng Chủ Tể muôn loài chấp nhận trở nên nghèo khó không chốn nương thân để loan báo Tin Mừng Cứu Độ.

Thánh Tôma Khuông cũng vậy, ngài đã quên đi dòng dõi quyền quý sang trọng, để theo tiếng Chúa kêu gọi và trở thành chứng nhân cho Đức Kitô, chứng nhân cho một tôn giáo mới mẻ đối với dân tộc Việt Nam, một tôn giáo bị miệt thị và chịu bách hại nặng nề. Quả thật, chỉ có Thiên Chúa mới khiến được cha hy sinh như thế. Và cũng thật quý báu biết bao tấm lòng của cha đã sẵn sàng đáp lại tiếng kêu gọi đó, đến nỗi hiến dân chính mạng sống mình cho tình yêu Thiên Chúa.

Phản đối bạo động

Tôma Khuông sinh khoảng năm 1780 (thời Trịnh Nguyễn) tại làng Nam Hòa, xứ Tiên Chu, tỉnh Hưng Yên. Con đường danh vọng rộng mở cho cậu bé thông minh xuất sắc này, vì cha cậu đã từng làm Tuần Phủ ở Hưng Yên. Nhưng cậu đã nghe theo tiếng gọi linh thiêng và xin vào nhà Đức Chúa Trời. Sau đó cậu theo học tại chủng viện và thụ phong linh mục.

Trong trách nhiệm coi sóc các linh hồn, cha Khuông nổi tiếng là một linh mục khôn ngoan, thánh thiện, khéo giao thiệp và nhiệt thành với sứ vụ truyền giảng Tin Mừng. Sống trong giáo phận Dòng Đaminh đảm trách, cha Khuông muốn liên kết sâu xa hơn với dòng, cha đã gia nhập dòng ba Đaminh và cổ động nhiều giáo hữu cùng tham gia để thánh hóa đời sống mỗi ngày.

Trải qua ba thời bách hại của các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, cha Tôma Khuông đã khôn khéo thân thiện với quan chức địa phương để tiếp tục thi hành việc mục vụ. Nhiều lần cha bị bắt giữ, nhưng nhờ những quan hệ này, cha được trả tự do. Tuy nhiên từ năm 1858, cuộc bách hại của vua Tự Đức gia tăng mãnh liệt, công việc của cha gặp nhiều khó khăn hơn. Áp lực của quân Pháp đã khiến vua Tự Đức tức giận và nghi ngờ tới công giáo tiếp tay với thực dân, nên thẳng tay đàn áp họ. Một vài làng Công Giáo có tổ chức một số thanh niên để tự vệ trước sự càn quét của quân lính nhà vua. Cha Khuông khi đó đã gần 80 tuổi, hoàn toàn không hưởng ứng chủ trương này. Năm 1859, thấy một giáo dân Cao Xá tổ chức võ trang, cha liền ngăn cản và quyết định lánh sang địa phận Đông Đàng Ngoài (Hải Phòng). Quyết định này khiến cha bị bắt và được lãnh phúc tử đạo.

Khi cha đến đầu cầu làng Trần Xá, cha thấy quân lính đã đặt sẵn ở đó một Thánh Giá buộc mọi người đi qua phải đạp lên. Là một linh mục của Chúa Kitô, cha nhất định quay lưng trở lại tìm lối đi khác. Thái độ dứt khoát đó, khiến quân lính nhận ra và chận cha lại. Khi cha khẳng khái từ chối việc bước qua Thánh Giá, lính liền bắt trói cha cùng với người tín hữu đi theo cha.

Sau 15 ngày giam giữ, cha Tôma Khuông và bốn giáo hữu khác có địa vị, được áp giải tới quan Tổng đốc xét xử. Quan tím mọi cách ép buộc cha làm nhân chứng tố cáo: những người Kitô hữu ở Cao Xá thông đồng với tàu Pháp – Tây Ban Nha đang bỏ neo ngoài cửa biển, âm mưu nổi loạn chống lại nhà vua. Cha Tôma thẳng thắn trình bày lập trường của giáo hội : “Đạo Công Giáo không những cấm các tín hữu chống đối chính quyền mà còn khuyến khích họ cầu nguyện và góp phần giúp quê hương được an ninh thịnh vượng”.

Bấy giờ quan không nói gì đến vấn đề này nữa, chỉ bắt cha bỏ đạo, bước qua Thập Giá và yêu cầu cha khuyên các tín hữu khác làm như vậy để được tự do về nhà. Khi đó người tôi trung của Chúa trả lời:

“Tôi nay đã 80 tuổi rồi, lại là linh mục công giáo, tôi luôn luôn nhắc nhở các tín hữu trung thành giữ đạo thánh Chúa. Giờ đây nếu tôi khuyên họ chối đạo thì tôi thật bất xứng và chẳng đáng làm linh mục. Tôi và các bạn toi không mong ước gì hơn là được hy sinh mạng sống vì đạo Chúa”.

Thánh giá và vinh quang.

Lòng khao khát mong mỏi trên của vị anh hùng đức tin đã được thể hiện. Án trảm quyết do quan Tổng đốc đệ vào kinh được vua Tự Đức chuẩn y. Và ngày 30.1.1860 cha Tôma Khuông bị điệu ra pháp trường Hưng Yên. Trên đường tới đồi Canvê của mình, mọi người thấy vị cha già khả kính chống cây gậy mà cha đã cẩn thận cột thêm một thanh ngang cho giống hình Thánh Giá, bước đi chậm rãi. Cha vui vẻ chào giã biệt những người đang ngậm ngùi thương tiếc tiễn đưa.

Cây Thánh Giá, biểu tượng suốt đời cha đã tin tưởng và công bố; cây thánh giá mà cha không bao giờ giày đạp cho dù phải chịu muôn nỗi gian khổ và cả cái chết, thì giờ đây, với cách biểu hiện đơn giản đó, cha muốn nói với mọi người rằng : cho đến phút cuối cùng của cuộc đời, Thánh Giá vẫn mãi mãi là niềm an ủi và là chỗ dựa vững chắc cho người Kitô hữu. Đến nơi xử, cha Khuông quỳ gối trang nghiêm cầu nguyện trước cây Thánh Giá đó rồi cuối đầu lãnh nhận lưỡi gươm đem lại vinh phúc ngàn thu.

Ngày 29.4.1951 cùng với 24 vị tử đạo khác tại Việt Nam, cha Tôma Khuông được Đức Piô XII suy tôn lên hàng Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Nguồn từ thư viện Đa Minh

Trường thi tử Đạo.

Thời Trịnh Nguyễn rộng đường danh vọng
Cha Tuần Phủ ô lọng Hưng Yên
Cậu Khuông thông thái nhất miền
Ðược ơn Chúa gọi chăn chiên Nước Trời

Cậu theo học dâng đời Chủng viện
Là Tông đồ tận hiến thiết tha
Thụ Phong Linh Mục làm Cha
Khiêm cung đạo đức thật là khôn ngoan

Khéo giao thiệp giỏi giang rao giảng
Loan tin mừng can đảm tuyên xưng
Ðaminh gia nhập đón mừng
Gia đình thánh hóa không ngừng canh tân

Khéo thân thiện ba lần cấm đạo
Bắt giữ Cha chúng bảo cho về
Các nơi Ngài vẫn say mê
Nhủ khuyên giáo hữu lời thề sắt son

Cuộc bách hại lại còn mãnh liệt
Tự Ðức vua tiêu diệt thẳng tay
Các làng Công giáo nơi này
Ðứng lên tự vệ Cha hay can liền

Cha quyết định đi liền nơi khác
Quân lính canh đứng gác đầu cầu
Mọi người qua lại nơi đâu
Bước qua Thập Giá ngõ hầu cho đi

Cha khẳng khái tức thì quay lại
Chúng bắt ngay áp tải giải quan
Ông Tổng Ðốc tố cáo gian
Âm mưu theo Pháp để làm tay sai

Cha khẳng định thưa Ngài Tổng Ðốc
Người Việt Nam ai ngốc ai ngu
Chính quyền chống đối theo thù
Quê hương cầu nguyện thiên thu an bình

Cuộc đấu lý thấy mình bị hố
Quan Tổng Ðốc tuyên bố đổi thay 
Nếu Cha thực hiện điều này
Bước qua Thánh Giá tha ngay về nhà

Tám mươi tuổi tôi là Linh Mục
Tôi luôn luôn hun đúc giáo dân
Phúc âm lời Chúa trọn phần
Yêu người mến Chúa nếu cần hy sinh

Quan Tổng Ðốc Triều Ðình kính đệ
Tự Ðức Vua phê để chuẩn y
Cha vui chuẩn bị bước đi
Chống gậy Thánh Giá thực thi ý Trời

Quân lính dẫn tới nơi để xử
Cha Khuông quỳ nghĩa cử trang nghiêm 
Trước cây Thánh Giá đầu nghiêng
Lưỡi gươm đón nhận tới miền Thiên Cung

Cho đến phút cuối cùng cái chết
Của cuộc đời đã kết thành hoa 
Dâng lên tới chốn Thiên Tòa
Tràng hoa tử đạo Tôma trung thành

Tôma Khuông năm sanh Canh Tý (1780)
Tại Nam Hào Phú Hậu Hưng Yên
Suốt đời rao giảng nhủ khuyên
Canh Thân (1860) tử đạo trong niềm hân hoan

Năm Tân Mão (1951) chứa chan chân phước
Công sức nhiều nay được hiển vinh
Hồn ngài về chốn thiên đình
Ðời đời hưởng phúc trong tình Cha con

Lời bất hủ: Quan khuyên cha bỏ đạo, bước qua Thập giá, khuyên tín hữu bỏ đạo. Cha đáp: “Tôi nay đã 80 tuổi rồi lại là linh mục Công giáo, tôi luôn luôn nhắc nhở các tín hữu trung thành giữ đạo thánh Chúa. Giờ đây nếu tôi khuyên họ chối đạo thì tôi thật bất xứng và chẳng đáng làm linh mục. Tôi và các bạn tôi không mong ước gì hơn là được hy sinh mạng sống vì đạo thánh Chúa”.

Nguồn: http://cpn.net.vn/118-vi-thanh-tu-dao-viet-nam/109-toma-khuong-1780-1860-c149-a1810.html

Sưu tầm: P. Mai Tự Cường