16-8:Thánh Stêphanô ở Hung Gia Lợi (975-1038)

Stephano-Hungary-628x1097

Đọc hạnh các thánh, con người sẽ không ngớt đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Mỗi vị thánh là một viên gạch, mỗi vị thánh mang một nét đặc thù riêng biệt, tất cả họ đều có một mẫu số chung là: ” …mặc lấy Chúa Giêsu “ ( Rm 13, 14) và sống như  Ngài. Việc lạ lùng nơi các thánh là các Ngài thuộc mọi lớp, mọi chủng tộc, mọi màu da, mọi ngôn ngữ ; Chúa đã tuyển chọn các Ngài để chính các Ngài làm chứng cho Chúa. Tuy nhiên, đó mới chỉ là một bộ mặt nổi, Giáo Hội tôn kính một số vị thánh có thể nói là nổi bật nhất, nhưng còn biết bao vị thánh, Hội Thánh không nhận ra hoặc chưa tôn vinh trên bàn thờ vì số này đông vô kể, họ vẫn đang trên Nước Trời chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa Ba Ngôi, cùng với Đức Mẹ và triều thần thánh trên Trời.

Thánh Tê-Pha-nô Hung-ga-ri là một trường hợp đặc biệt trong muôn vàn trường hợp mà Hội Thánh nhận ra công đức và những công việc của Ngài làm ở dưới thế gian này dù rằng Ngài ở trên ngai tòa cao nhất của đất nước Hung-ga-ri, thánh nhân vẫn thực hiện được những điều làm vinh danh Chúa. Thánh Tê-pha-nô Hung-ga-ri sinh vào khoảng năm 975 và được lãnh nhận phép rửa tội làm con Chúa và con của Giáo Hội năm 985. Năm 997, thánh nhân lên kế vị Vua Cha. Ngài đã trị vì trên ngôi Vua, lãnh đạo đất nước Hung-ga-ri được 42 năm. Lên ngôi được 3 năm, thánh nhân được Đức Giáo Hoàng Sylvestre II phong vương với tước hiệu :” Vị Vua loan báo Tin Mừng của nước Hung-ga-ri “vào ngay dịp lễ Chúa giáng sinh năm 1000. Thánh nhân có thân hình nhỏ bé chứ không cao ráo, quắc thước như những vị Vua khác, nhưng tấm lòng của Ngài thật bao la, quảng đại. Ngài có con tim rộng mở, nhạy bén, tiên đoán chính xác thời cuộc, Ngài có rất nhiều khả năng lãnh đạo, điều khiển đất nước và tấm lòng nhiệt thành, quả cảm đối với mọi công việc của đất nước Hung-ga-ri. Thánh nhân đã xây dựng đất nước Hung-ga-ri với tất cả tấm lòng, với tất cả đức tin vững chắc, sâu xa của mình vì Ngài thấm nhuần lời thánh Phaolô dậy: “ Anh em là thân thể của Đức Kitô, anh em là các chi thể của Ngài “( 1 Co 12, 27 ). Ngài coi  các thần dân của Ngài như là những người anh em trong Chúa đã” được thanh tẩy, nên cùng chết và cùng sống lại với Đức Kitô “. Được phong Vương với tước hiệu: “ Vua truyền giáo của đất nước Hung-ga-ri “, thánh nhân đã nỗ lực sống tình yêu của Chúa Kitô đối với thần dân, đối với đất nước của Ngài. Suốt 42 năm trên ngai Vua, thánh nhân đã xây dựng đất nước Hung-ga-ri với đôi bàn tay vững chắc, với con tim yêu thương, với tấm lòng quảng đại bao la của Ngài. Trên ngai Vua, thánh nhân đã tổ chức Hội Thánh thấm nhuần đức tin sâu xa trên quê hương, đất nước của Ngài : Ngài đã thiết lập các giáo phận và xây dựng nhiều nhà thờ nguy nga, hoành tráng, lộng lẫy và đồ sộ trên đất nước Hung-ga-ri. Thánh nhân đã từ giã cõi đời, từ bỏ ngôi Vua trần thế vào chính ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên Trời và dân chúng Hung-ga-ri thường gọi ngày đó là ngày lên trời của đất nước Hung-ga-ri.

saint-stephen-of-hungary

Thánh Tê-pha-nô Hung-ga-ri đã sống đúng lời thánh Phaolô dạy : ”Các bạn hãy vui mừng, tôi nói lại một lần nữa các bạn hãy vui mừng”( Philip 4, 4 ). Thánh nhân đã hoàn toàn tín thác cho Chúa, đã đáp lại lời mời gọi nên thánh của Chúa. Làm Vua có nghĩa là được tận hưởng mọi vinh dự và vinh quang do chức vị Vua mang lại, nhưng thánh Tê-pha-nô Hung-ga-ri đã sống như một Vua hiền từ, khiêm nhượng và phục vụ như lời Vua Giêsu đã nói : “…đến để phục vụ chứ không phải để được hầu hạ “.

Lạy thánh Tê-pha-nô Hung-ga-ri  xin giúp chúng con luôn có tấm lòng quảng đại và khiêm tốn để chúng con làm chứng nhân truyền giáo cho Chúa với tất cả tình yêu của Chúa. Amen.

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT 

BÀI ĐỌC THÊM:

 

Stephen_of_Hungary_on_stamp

Ai ai cũng có thể đến với ngài, nhất là những người nghèo.

Lược sử
Giáo Hội thì phổ quát, nhưng dáng vẻ bên ngoài thì luôn luôn bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa địa phương – dù tốt hay xấu. Không có Kitô Hữu nào được coi là “cùng đặc điểm” cả; có người là Công Giáo Mễ Tây Cơ, hay Công Giáo Ba Lan, hay Công Giáo Việt Nam. Dữ kiện này được nhận thấy hiển nhiên trong cuộc đời Thánh Stêphanô, vị anh hùng dân tộc và quan thầy của nước Hung Gia Lợi.
Sinh trong một gia đình ngoại giáo, ngài được rửa tội khi lên 10 cùng với cha của mình là thủ lãnh nhóm Magyar, là những người khai phá đã đến Danube trong thế kỷ thứ chín. Khi 20 tuổi, ngài kết hôn với Gisela, người em của hoàng đế tương lai là Thánh Henry. Khi kế vị cha mình, Stêphanô theo chính sách của một quốc gia Kitô Giáo vì các lý do chính trị cũng như tôn giáo. Ngài triệt hạ được các cuộc nổi loạn của giới quý tộc ngoại giáo và thống nhất người Magyar thành một tổ chức lớn mạnh trong nước. Ngài đến Rôma để xin Giáo Hội phê chuẩn và cũng để xin đức giáo hoàng phong ban tước vua cho mình. Vào lễ Giáng Sinh 1001, ngài được đội vương miện.
Stêphanô đã thiết lập một hệ thống thuế thập phân để hỗ trợ các nhà thờ và cha xứ, cũng như giúp đỡ người nghèo. Cứ 10 thành phố thì một thành phố phải xây một nhà thờ và cấp dưỡng cho một linh mục. Ngài bãi bỏ các tục lệ ngoại giáo với ít nhiều sự ép buộc, và ra lệnh tất cả mọi người phải kết hôn, ngoại trừ giáo sĩ và tu sĩ. Ai ai cũng có thể đến với ngài, nhất là những người nghèo. Vào năm 1031, con trai trưởng của ngài là thái tử Emeric từ trần và quãng thời gian kế đó đầy dẫy những tranh chấp quyền kế vị. Ngay cả người cháu cũng mưu toan ám sát ngài. Stêphanô từ trần năm 1038 và được phong thánh năm 1083.

Suy niệm 1 Phổ quát
Giáo Hội thì phổ quát, nhưng dáng vẻ bên ngoài thì luôn luôn bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa địa phương–dù tốt hay xấu.
Thuật ngữ Catholic bắt nguồn từ chữ Katholikos trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “phổ quát” hoặc “công cộng”. Thuật ngữ này lần đầu tiên được sử dụng để mô tả về một giáo hội kitô giáo duy nhất từ những năm đầu thế kỷ II. Chữ Katholikos là biến thể từ chữ Katholou do sự kết hợp giữa hai từ Kato Holou có nghĩa là tôn giáo mà “ai cũng theo được”. Từ nguyên nói trên được dịch sang tiếng Việt là “Công Giáo”. Như vậy tên gọi Giáo Hội Công Giáo có nghĩa là “Giáo Hội phổ quát”.
Có một ít sự bất đồng về cách dùng từ không thật sự rõ nghĩa giữa “Giáo Hội Công Giáo Rôma” và “Giáo Hội Công Giáo”. Nguyên nhân là do một vài nhánh kitô giáo khác cũng tuyên bố họ là “Công Giáo” (nghĩa là phổ quát). Đặc biệt, Chính Thống Giáo Đông Phương thích áp dụng thuật ngữ “Giáo Hội Công Giáo Rôma” để chỉ rõ trung tâm giáo hội này ở Rôma, nhằm phân biệt với các giáo hội đông phương có trung tâm ở Constantinopolia (nay là Istanbul).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp cho các giáo hội kitô giáo được hiệp nhất nên một để làm sáng tỏ tính phổ quát của một giáo hội duy nhất.
Suy niệm 2 Địa phương
Giáo Hội thì phổ quát, nhưng dáng vẻ bên ngoài thì luôn luôn bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa địa phương–dù tốt hay xấu.
Hiến Chế Tín lý về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay, số 62 ghi nhận: “Dù Giáo Hội đã góp phần rất nhiều trong việc phát triển văn hóa, kinh nghiệm cho thấy, vì hoàn cảnh, đôi khi thật khó để hài hòa văn hóa với giáo huấn của Giáo Hội…
Những khó khăn này không nhất thiết gây thiệt hại cho đời sống đức tin. Thật vậy, chúng có thể khích lệ tâm trí để thấu hiểu đức tin cách chính xác hơn. Vì các cuộc nghiên cứu và khám phá mới đây của khoa học, lịch sử và triết học đã nêu lên các vấn đề mới có ảnh hưởng đến đời sống và đòi hỏi phải có các cuộc nghiên cứu mới về thần học”.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn quan tâm đến tinh thần hội nhập văn hóa của Công Đồng Vatican II để thực thi.

Sưu tầm: P. Mai Tự Cường

Leave a comment